Phải đề phòng sự ưa thích bất chợt
* Các sách của ông luôn có một giọng điệu rất riêng, cung cách lập luận độc đáo. Ông có chịu ảnh hưởng về phương pháp nghiên cứu lịch sử của ai không?
- Xin cảm ơn lời khen. Điều đó có lẽ một phần do hoàn cảnh riêng biệt của tôi. Tôi là nhà nghiên cứu (có lần ông Trần Bạch Đằng đã gọi như thế) mà không từng ở cơ quan nghiên cứu nào hết. Cả đến việc dạy học là vị trí gần với nghiên cứu nhất, tôi cũng không phải là “dân” ở đó. Tổng cộng trong đời, tôi chỉ dạy học khoảng hai năm rưỡi mà lại cách nhau hơn 10 năm, rồi tuyệt tích.
Trong Những bài dã sử Việt, lần đầu tiên người đọc phát hiện nhà cổ tiền học Tạ Chí Đại Trường qua bốn bài khảo cứu chuyên biệt, trong đó bài viết ngắn nhất lại ấn tượng nhất. Trong bài Về khuôn tiền đá ở Núi Voi (Bắc Thái), chỉ từ một tấm ảnh ố vàng, ông đã chứng minh đầy thuyết phục, khuôn đúc tiền bằng đá tìm thấy ở Núi Voi không thể là của đời Đường như một số sách/giáo trình lịch sử nhận định. Nhờ đọc bài viết của ông, ông F. Thierry, một chuyên viên về tiền cổ, đã kịp thời đính chính trên chuyên san Bulletin de la Société Francaise numismatique (Tập san của Hội Tiền cổ Pháp) số tháng 3/1997, rằng khuôn tiền đó chỉ có một lỗ khắc đồng Khai nguyên, tiền hiệu đầu Đường, thế kỷ VII; còn bảy lỗ khác là tiền hiệu Tống, thế kỷ X, XI. |
Tất nhiên là tôi cũng bắt đầu từ trường đại học như đã nói. Lớp người như tôi, trưởng thành trong phần nửa đầu của cuộc chiến, không biết tiếng Pháp như các bậc đàn anh, không chuyển kịp qua thời tiếng Anh về sau nhưng vẫn giữ tiếng Pháp là sinh ngữ chính và học tập trong môi trường trung, đại học theo truyền thống Pháp. Vì thế phương pháp nghiên cứu sử là bắt nguồn trực tiếp từ các sách giáo khoa hay chuyên ngành của Pháp, hoặc qua cách vận dụng từ giáo sư Pháp.
Chữ nghĩa hấp tấp thu thập từ trong chiến tranh vốn cũng không nhiều nhưng đành phải cứ từ căn bản đó mà “bơi” tự do. Nhưng có vẻ cũng từ căn bản đó mà tôi đã “khác” đi. Căn bản khoa học dễ thấm vào những người bị chiến tranh bốc ra khỏi môi trường làng xóm, khỏi gia đình truyền thống như chúng tôi.
Sách sử gọi là của truyền thống “xa xưa” nhưng vốn từ các nho sĩ lại cũng học của mấy ông “Tử viết...” luôn luôn vọng tưởng về một thời hoàng kim Tam Hoàng Ngũ Đế, đem ứng dụng vào trong nước là mơ màng về một thời Hùng Vương đầy đủ thể chế văn minh (tuy có lúc cũng xê xích cho phải phép.) Chuyển qua thời đại “khoa học”, đó là một nền văn minh Đông Sơn rực rỡ của các đào bới khảo cổ học, như một minh chứng vật chất vững chãi cho thời Hùng Vương chỉ còn vài dòng sách vở.
Rồi với thời có sử thì những thiết chế chính trị từ Trung Quốc chuyển qua phủ Đô hộ An Nam độc lập cũng tiếp tục được coi là không nhường ai về mặt văn minh.
Tôi nghĩ mình đã được thoát ra khỏi những lối nhìn “truyền thống” cũ và mới như thế là nhờ ở vị thế “mới” về tư tưởng chấp nhận để thấy ra sự khác lạ trên các sự kiện cũ. Khoa học bắt đầu bằng sự ngạc nhiên và do đó bắt buộc người ta phải đi tìm những kiến giải khác.
Rồi thêm với vị thế bên lề xã hội của mình, tôi tự do viết không cần lo chuyện có được phổ biến hay không, hay như ở Mỹ, là viết cho những tạp chí không đủ tiền trả, viết cho nó sống để mình còn có “sân chơi”!
* Nhiều người nói ông rất dở trong việc đặt tên sách, thường nghe không “kêu”, ông nghĩ gì về điều này?
- “Bá nhơn bá bao tử”, tôi phải trọng ý kiến của người khác nhưng vẫn giữ ý kiến của mình.
* Ông đã đến với việc nghiên cứu lịch sử như thế nào, có cần một năng khiếu đặc biệt gì không?
- Khoa học là nghiêm túc, là khổ nhọc. Tự bản thân, tôi không thấy mình có thiên hướng gì đặc biệt. Đi học, chọn một ngành riêng biệt rồi cứ theo đó mà làm thôi. Đã có nhiều người định nghĩa thiên tài là kiên nhẫn, là cố gắng, cho nên người muốn nghiên cứu sử thành đạt cũng không có con đường nào khác. Phải đề phòng sự ưa thích bất chợt nhảy vào sử vì vướng víu với ý tưởng chung xưa cũ “Ai biết được chữ thì cũng có thể viết được sử.” Hiện giờ vẫn còn rất nhiều “danh tác sử học” thuộc loại đó. Viết sử theo truyền thống Trung Hoa thì không có trường trại nào hết nhưng từ khi người Pháp qua, và nhất là từ thời độc lập 1945 đã có nhiều lớp chuyên viên được tạo thành theo đường lối sử học Tây phương.
* Xin cám ơn và hy vọng tiếp tục được đón đọc những bài viết mới, những phát hiện mới của ông.