Ông Nguyễn Ty Niên: Không nên xem bãi như “một vết sẹo làm xấu đi vẻ hùng vĩ của sông Hồng”. |
Thật ra, nhiều vấn đề nêu trên cũng không hoàn toàn là mới lắm so với những phản biện đầu tiên được chính người trong cuộc (ông Phan Đình Đại) đưa ra trên TT&VH cách đây cả năm trời. Tới nay, chúng chỉ tiếp tục được bổ sung, phân tích để làm rõ lên thôi. Trong một “rừng” những ý kiến, đôi khi biến thành những tranh luận rất gay gắt, thì rất đáng chú ý là là một lưu ý nhỏ về sông Hồng, nhìn dưới góc độ thủy nông- thủy lợi.
Và lưu ý ấy khiến nhiều người phải giật mình. Đây đó, người ta vẫn coi sông Hồng là một dòng chảy hung dữ, là đối tượng cần phải chinh phục, chỉnh trị. Còn các bãi sông và nhất là dải dất rộng lớn hai bên bờ sông thì là đối tượng để khai thác, tận dụng làm công viên hay làm các khu đô thị mới. Nhưng từ hàng ngàn năm nay, sông Hồng đâu chỉ “hữu dụng” ở chỗ đó, nó còn còn là nguồn “dinh dưỡng” cho cả vùng đồng bằng, trong đó có Hà Nội.
Sông Hồng thực tế đang nguồn nước tưới trực tiếp của hàng chục triệu nông dân qua hệ thống các cống lấy nước. Tại hội thảo, ông Nguyên Ty Niên, Nguyên Cục trường Cục Đê điều – Phòng Chống lụt bão đã cảnh báo nguy cơ biến động về nguồn nước tưới này khi “can thiệp” vào sông Hồng.
Dự án “Quy hoạch cơ bản phát triển khu vực sông Hồng, đoạn qua Hà Nội” do TP.Hà Nội phối hợp với TP. Seoul (Hàn Quốc) xây dựng từ tháng 7/2006, hiện đang được tổ chức lấy ý kiến nhân dân tại Cung Thể thao Quần Ngựa, Hà Nội. Với giải pháp “lăn đê” (xây đê mới kiên cố tiến ra phía lòng sông), dự án đã làm dư được gần 2500ha đất để phát triển đô thị; ngoài ra còn sử dụng 4200ha đất cho 12 khu công viên sinh thái. Tổng số dân phải di dời trên 17 vạn người. Dự kiến kinh phí trên 7 tỷ USD. |
Chỉ với một ví dụ về sự tác động vào bãi giữa sông Hồng (bãi Trung Hà). Ông Niên cho rằng, bãi giữa vốn là một thực thể trường tồn vĩnh cửu của thiên nhiên, nhưng nay lại xem nó như “một vết sẹo làm xấu đi vẻ hùng vĩ của sông Hồng” và “người ta tưởng rằng có thể đẽo gọt nó theo ý muốn mà dự án sông Hồng xem đây là điểm nhấn”.
Theo phân tích của ông Niên, thiên nhiên đã hình thành bãi giữa sông Hồng như cái “nêm” để chỉnh trị, để điều tiết linh hoạt quy luật biến động của dòng chảy sông Hồng ở những điểm chốt quan trọng nhất này: Điều tiết sự phân lưu phù hợp vào sông Đuống, điều tiết hình thái dòng chảy, thế sông phía hạ du. Lũ lớn thì dòng chủ lưu tràn qua bãi giữa, tăng khả năng thoát lũ ở đoạn sông hẹp nhất này. Cùng với các kè chỉnh trị thế sông toàn tuyến đảm bảo cho dòng chảy mùa cạn áp sát vào cống Liên Mạc, cửa Đuống, cảng Hà Nội và cống Xuân Quan. (Chính vì thế, để đảm bảo cho luồng lạch vận tải và cảng Vĩnh Tuy, các chuyên gia đường sông cũng chỉ làm hệ thống kè mềm (cọc bê tông và phên nứa) ở đầu bãi tại Tứ Liên).
Sự thay đổi hình thái bãi giữa (nếu xảy ra) sẽ làm thay đổi thế cân bằng mềm dẻo của dòng sông nên có thể sẽ làm biến động toàn bộ các cửa lấy nước tưới quyết định sự sống còn của nền nông nghiệp đồng bằng sông Hồng và lan tỏa sang cả hệ thống sông Thái Bình bởi phân lưu sông Đuống. Liệu rồi các cửa lấy nước tại trạm bơm Đan Hoài (tưới cho 20 ngàn ha), ấp Bắc (tưới cho 15 ngàn ha), cửa Liên Mạc (sông Nhuệ) tưới cho 100 ngàn ha và cửa Xuân Quan (Bắc Hưng Hải) tưới cho 200 ngàn ha có bị biến động bởi các bãi bồi mới, đẩy lòng con (tức là khoảng lòng chảy giữa hai bờ sông, không tính bãi sông rộng lớn khi lũ lên) của sông Hồng ra xa và từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của hàng chục triệu nông dân? Và khi đó Nhà nước phải chi một khoản ngân sách khổng lồ để duy trì hoạt động của các công trình này? Ông Niên đi đến kết luận: “Phải bảo tồn nguyên trạng bãi giữa sông Hồng”.