Nhớ Giáo sư Hà Văn Tấn: Ngóng theo bóng Thầy

03/12/2019 11:00 GMT+7 | Văn hoá

(Thethaovanhoa.vn) - (LTS) Như Thể thao và Văn hóa đã đưa tin, GS-NGND Hà Văn Tấn đã qua đời hôm 27/11, thọ 82 tuổi. Tang lễ vừa diễn hôm qua (2/12) tại Nhà tang lễ quốc gia (5 Trần Thánh Tông, Hà Nội). Nhớ về thầy Tấn, một học trò của ông, TS Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, đã có bài viết cảm động về tình thầy trò. Xin giới thiệu cùng bạn đọc:

Vĩnh biệt GS Hà Văn Tấn: 'Viết sử, trước hết phải là người trung thực'

Vĩnh biệt GS Hà Văn Tấn: 'Viết sử, trước hết phải là người trung thực'

Hơn nửa thế kỷ phủ bóng lên nền sử học Việt Nam, “tứ trụ” nổi tiếng Lâm - Lê - Tấn - Vượng cũng tới lúc phải cùng nhau rời xa cõi tạm khi người cuối cùng trong số họ - GS Hà Văn Tấn - qua đời vào tối 27/11 vừa rồi...

Thầy Tấn! Đã hơn 50 năm nay chúng tôi quen với cách gọi thân thiết này, kể từ ngày đầu tiên chàng thanh niên 31 tuổi gầy gò, mảnh khảnh nhận làm Chủ nhiệm lớp Sử (khóa 1968-1972) ở nơi sơ tán Trại Chuối, Vạn Thọ, Đại Từ, Thái Nguyên. Thầy sinh năm 1937, cùng tuổi với anh trai tôi và trong lớp có tới 30 sinh viên ngang hoặc hơn cả tuổi Thầychủ nhiệm. Nhưng cái “bóng” của Thầy khi đó, cùng “bóng” của các thầy Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng đã tỏa rộng không chỉ ở Khoa Sử Tổng hợp mà bắt đầu lan ra cả nước.

Cái buổi ban đầu

Sau khi nhập trường, hơn một tháng tập, chúng tôi được khoa thông báo thầy Hà Văn Tấn sẽ về làm chủ nhiệm lớp. Khi đó, sách Chống Nguyên Mông đã có một tiếng vang rất lớn gắn với tên tuổi Thầy và cô Phạm Thị Tâm đồng tác giả. Chúng tôi bắt đầu ngóng bóng thầy từ đó với mọi sự tò mò, hồi hộp như đón một vĩ nhân.

Lớp học được hai tuần, Thầy mới xuất hiện. Hóa ra, Thầy phải chuẩn bị thủ tục cho cuộc khai quật sắp tới ở Xóm Rền (Phú Thọ), nơi bén duyên thầytrò chúng tôi trong những ngày giáp Tết Mậu Thân năm đó.

Chú thích ảnh
Thầy Hà Văn Tấn, Chủ nhiệm lớp Sử 1, Đại học Tổng hợp, năm 1968

Khoảng cuối tháng 10/1968, Thầy xuất hiện, tự tin, trẻ trung, hóm hỉnh gọi ngay đám học sinh trai thành thị chúng tôi là “lũ ông tướng” và đã thuyết phục được đám trẻ nghịch ngợm chúng tôi bằng việc nhận làm trọng tài cho trận đá bóng đầu tiên của lớp. Trong đời cũng đã tham gia hàng chục trận đá bóng, nhưng tôi vẫn ấn tượng với những xử lý “siêu chuyên nghiệp” của trọng tài Hà Văn Tấn ngày hôm đó. Trong đó có cả vụ cầu thủ Nguyễn Điền sút bóng mà bóng dính cả vào chân. Hóa ra móng ngón chân cái của cầu thủ này đã làm rách đường khâu trái bóng, khiến cả bàn chân ngập vào bên trong vỏ da. Sau này tôi mới biết, Thầy rất mê bóng đá. Thậm chí tới những năm sau này, có lẽ việc thức đêm coi những trận bóng tại Ngoại hạng Anh cũng là một trong những nguyên nhân gây ra cơn đột quỵ ngay trên lớp của Thầy.

Duyên khảo cổ

Đã thành nếp, vào Đông, trời se lạnh, nhà trường lại tổ chức năm thứ nhất thực hành khai quật khảo cổ học. Cả lớp rất háo hức, được chia thành ba khối: Cổ Loa, theo thầy Trần Quốc Vượng; Tứ Xã, theo thầy Diệp Đình Hoa và Xóm Rền, theo thầy Hà Văn Tấn.

Tôi thuộc nhóm Xóm Rền. Đoàn đến nơi, ổn định chỗ ở rồi sáng hôm sau gặp Thầy ở “di chỉ”. Cạnh Thầy có thầy Hán Văn Khẩn, cùng là giáo viên bộ môn khảo cổ, quê ở ngay tại đó, và anh Phan Trọng Kiểm, sinh viên khảo cổ năm cuối. Bài học đầu tiên: Chọn hướng trên địa bàn, đóng cọc căng dây tạo hố đào. Sau đó chia ô và mỗi nhóm ba người một ô, dùng cuốc xẻng, bay và chổi lông đào từng lớp 20cm một. Hiện vật được định vị tọa độ, đánh số và lưu trong “bị cói”. Tôi và “Hùng con” (sau này là đại tá Nguyễn Mạnh Hùng, báo Quân đội Nhân dân) được Thầy giao việc này.

Có ba kỷ niệm thầy trò đáng nhớ trong đợt khai quật đầu tiên: Một hôm, khi phát hiện một ngôi mộ còn hình hài xương cốt, thầy Tấn nhặt một mảnh xương trắng bở văng ra từ nhát bay ở phần đùi bộ xương, rồi đưa lên miệng nhấm nhẹ, suy ngẫm. Ông nhìn đám học trò chúng tôi bao quanh như gợi ý làm theo. Chỉ có tôi và Hùng con tin Thầy và làm theo, cảm nhận độ dính như kẹo bột. “Đúng đấy! hóa thạch non” -Thầy giảng giải: đó cũng là cách mà các nhà địa chất châu Âu thường dùng để kiểm tra độ hóa thạch của xương ở hiện trường khai quật.

Sau này, tôi và Hùng được nhận vào bộ môn Khảo cổ và được Thầy ưu ái có lẽ cũng do sự “liều mạng” theo Thầy hôm đó.

Lại chuyện nữa, Thầy thường ra các bài toán để thử tuyển lọc trí thông minh của học trò. Hôm đó, nghỉ trưa, thầy trò chia nhau nằm dưới các bóng mát giữa các rãnh sắn, Thầy đố ai đếm được nhanh nhất đã và đang có bao nhiêu cọng lá trên một thân sắn. Đáp số không phải là con số cụ thể, mà là cách tính số lá từng khoanh nhánh và nhân với tổng số khoanh. Sau này, khi về dạy chuyên ban, ngủ lại với chúng tôi, Thầy cũng từng đưa ra những bài toán logic đa ẩn số như Send+More=Money và cách sàng lọc nhận diện của Schlieman, nhà khảo cổ học Đức để giãn sự đeo bám quấy rầy của đám trẻ hiếu học, ham chuyện chúng tôi.

Chú thích ảnh
Từ trái sang: GS Trần Quốc Vượng, GS Hà Văn Tấn, GS Phan Huy Lê và GS Đinh Xuân Lâm tại lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh GS Đào Duy Anh năm 2004 (ảnh tư liệu của PGS.TS Trần Kim Đỉnh)

Chuyện thứ ba là hôm bất chợt chúng tôi phát hiện một đầu gà bằng gốm, vốn gãy ra từ một đồ gốm Phùng Nguyên. Thầy cầm ngắm đầu gà, lặng người, suy ngẫm hồi lâu rồi cười phá lên rất to, dõng dạc tuyên bố: “Cô Tuyết (cán bộ lớp tôi phụ trách hậu cần), tối nay “ăn tươi”, tôi chiêu đãi!”. Cả lớp hò reo, không phải như Thầyđang phát hiện đầu gà bằng gốm sớm mà vì nghĩ đến những đầu gà thật sẽ bị cắt tiết tối nay. Đó là một buổi tối vui, rất vui. Cho đến nay cái đầu gà đó vẫn là biểu tượng của địa điểm Xóm Rền và của văn hóa Phùng Nguyên nữa.

Học các loại sử trong ba năm, cuối năm 1971, bắt đầu vào năm thứ tư, chúng tôi phân ban chuyên ngành hẹp. Các thầy chọn trò và chúng tôi cũng tìm chọn Thầy. Tôi đến nhà thầy Tấn một buổi tối ở Phan Huy Chú. Khi đó Thầy còn “độc thân” lại bị cảm viêm họng, nằm trên giường cá nhân ở căn phòng tầng hai số nhà 20 Phan Huy Chú, chung phòng với thầy Thích dạy ở khoa Vật lý cùng Trường. Khi tôi hỏi ý kiến Thầy, vẫn kiểu dửng dưng vốn có, Thầy nói: "Kệ cậu thôi chứ”, ý là tùy cậu tự chọn. Nhưng khi tôi chào Thầy ra về, Thầy bắt tay tôi, nói nhanh và rất khẽ: "Cậu đi Khảo cổ với tớ đi”. Và cuộc đời tôi đã định hướng như thế đấy: Tôi là nhà khảo cổ học!

Năm đó, tôi, “Hùng con” và Đỗ Hảo theo Thầy đi Tứ Xã (Phú Thọ) đào Ghệ, Dạ để làm luận văn. Đang khai quật, Thầy nghỉ một tuần về Hà Nội. Khi Thầy lên vào đêm muộn hôm ấy, sáng dậy, tôi thấy một gói kẹo lạc trứng chim dưới gối. Thầy vẫn nhớ “cậu Việt hay ăn kẹo lạc”. Mới biết Thầy về cưới vợ là chị Quỳnh Nga, con gái họa sĩ Mạnh Quỳnh, đang làm họa sĩ ở Viện Khảo cổ học.

Tết năm ấy, đào xong, chờ chỉnh lý và viết báo cáo thì cả tôi và Hùng con đều đi bộ đội, Đỗ Hảo đi phóng viên chiến trường, để lại gánh nặng chỉnh lý báo cáo lên vai Thầy. Sau này, trong quân ngũ, tôi có nhận được thư của Thầy nhớ về những ngày giá lạnh Ghệ, Dạ năm ấy. Trong thư Thầy xúc động, đã xưng “anh” và gọi chúng tôi là “em”.

Phải nói năm đó, chúng tôi rất bám Thầy, thường đến 20 Phan Huy Chú “quấy” Thầy đến nửa đêm khiến gây ồn cho các gia đình thầy khác ở hàng xóm. Thường đến khoảng 11,12h đêm, có hôm chờ hoa quỳnh nở xong, thầy Tấn đẩy từng đứa chúng tôi ra khỏi cửa để khóa lại, thầytrò bịn rịn khó rời. Đây là biệt thự giống khu tập thể mà gia đình giáo sư Trần Văn Giàu (ở tầng ba) đã dành hai tầng dưới cho các học trò: Tầng một -thầy Kiều Xuân Bá và thầy Trịnh Nhu, tầng hai -thầy Tấn và thầy Thích.

Những tháng ngày rạng rỡ

Hết chiến tranh chống Mỹ năm 1975, tôi đã về dạy văn, sử ở Bộ tư lệnh Hải quân, thường có dịp về họp ở Hà Nội, luôn đến thăm và mượn sách của Thầy. Một hôm Thầy nói với tôi: “Tớ đã giới thiệu cậu với thầy Phan Hữu Dật (vốn là Chủ nhiệm Khoa Sử lên làm Hiệu trưởng Đại học Tổng Hợp) để cậu về Trường đi học Gerasimov (chuyên gia Nga phục dựng mặt người theo sọ), nhưng cụ Ghê (Gerasimov) mất rồi, mình giới thiệu cậu về chỗ anh Thông” (giáo sư Phạm Huy Thông, Viện trưởng Viện Khảo cổ học).

Lời giới thiệu của Thầy Tấn rất có giá trị. Giáo sư Thông đặc biệt yêu mến và tin tưởng thầy Tấn, đã cử cán bộ tổ chức đến tận Bộ tư lệnh Hải quân ở Hải Phòng xin tôi về Viện. Nếu không có sự kiện này, cuộc đời tôi sẽ theo một hướng khác, khi mà lãnh đạo Bộ tư lệnh Hải quân đang hướng tôi thành sĩ quan Bảo tàng Quân chủng. Đời khảo cổ của tôi mãi mang ơn người Thầy, người anh như vậy.

Về Viện Khảo cổ, tôi càng có dịp gần gũi Thầy Tấn. Vì từ 61 Phan Chu Trinh của Viện Khảo cổ đến 20 Phan Huy Chú chỉ là một đoạn mấy trăm mét phố Hàn Thuyên. Hàng ngày, hết giờ làm buổi trưa hay chiều tôi đều tạt qua thăm Thầy. Giáo sư Phạm Huy Thông cũng thường nói tôi giữ mối liên hệ để học hỏi từ Thầy. Ông đặc biệt trân trọng và tin tưởng ở thầy Tấn. Khi đó, tôi làm Trưởng ban trị sự Tạp chíKhảo cổ học. Giáo sư Thông luôn nhắc tôi đến đặt bài thầy Tấn. Gần như mọi bài viết của thầy Tấn cho Tạp chí hay Thông báo Khảo cổ học, giáo sư Thông đều lưu bút cho Ban biên tập: “Để nguyên, không sửa”. Cũng chính giáo sư Thông đã ủng hộ phong hàm giáo sư cho bốn thầylớn của Khoa Sử và đã đề nghị giáo sư Tấn về làm Viện trưởng Viện Khảo cổ học khi ông nghỉ quản lý.

Vào khoảng những năm cuối 1970, đầu 1980, thầy Tấn nói tôi tập hợp một nhóm khảo cổ học trẻ (có Ngô Thế Phong, Nguyễn Khắc Sử, Bùi Vinh…) đặt tên nhóm là “Phan Huy Chú” lấy tên phố nhà Thầy mà chúng tôi thường tụ tập. Khi đó, thầy Thích đã chuyển đi nơi khác, căn phòng tầng hai chỉ có gia đình thầy Tấn. Cháu Cẩn cũng đã ra đời và Thầy đón mẹ từ quê ra ở cùng.

Chúng tôi họp nhau mỗi tuần một buổi vào chiều thứ Bảy (khi đó vẫn làm việc cả ngày thứ Bảy). Nội dung thường là thầy Tấn giao cho chúng tôi, tùy kiến thức ngoại ngữ, các tài liệu khảo cổ học mới để đọc, tập hợp và thay nhau trình bày trước nhóm. Đôi khi Thầy giao chúng tôi hướng dẫn luận văn tốt nghiệp đại học và làm tư liệu cùng Thầy thực hiện những chuyên đề lớn. Nguyện vọng của Thầy nhen nhóm một trường phái (school) trong khảo cổ học. Cũng khoảng đó, Thầy có dịp đi dạy ở Pháp và nhận hàm giáo sư đặc cách. Đó là những tháng ngày rạng rỡ nhất của thầy trò chúng tôi.

TS Nguyễn Việt

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm