'Cha đẻ báo lá cải': Joseph Pulitzer thành công nhờ quá đam mê

15/05/2013 15:35 GMT+7 | Văn hoá

Ngày 29/10/1911, người khai sinh ra dòng báo lá cải, Joseph Pulitzer, qua đời trên du thuyền yêu quý của mình tại cảng Charleston (bang Nam Carolina). Theo bản di chúc được lập ra ngày 17/8/1903, một quỹ giải thưởng dành cho văn học, báo chí, âm nhạc và sân khấu đã được lập ra với 2 triệu USD do chính ông trùm báo chí  người gốc Do Thái, sang Mỹ từ Hungary, bỏ ra. Từ năm 1917, giải thưởng báo chí Pulitzer bắt đầu được trao hàng năm.

Tuy nhiên, năm 2012, truyền thống này đã bị tạm thời gián đoạn. Năm nay, giải thưởng Pulitzer vừa được công bố ngày thứ hai 15/4. Đây được coi là giải thưởng báo chí lớn vào loại hàng đầu ở Mỹ.

Trái tim nóng bỏng

Joseph Pulitzer sinh ngày 10/4/1847 tại thị trấn nhỏ Mako của Hungary  trong gia đình thương gia bánh mì giàu có và mộ đạo gốc Do Thái. Người mẹ là một phụ nữ Đức theo Công giáo và cũng rất mộ đạo. Khi Joseph còn rất nhỏ, gia đình đã chuyển đến thủ đô Budapest, nơi cậu bé đã được gửi vào học trong một trường tư.

Năm 17 tuổi, Pulitzer bỗng nhiên cảm thấy thèm được sống đời người lính và đã thử đầu quân ở lần lượt ba quốc gia: Áo, Anh và Pháp. Tuy nhiên, vì thị lực và sức khỏe kém nên nhà báo tương lai đã không thực hiện được ước mơ xung trận của mình.

Thế mà, Joseph không nản chí và tìm mọi cách để gia nhập quân đội Mỹ. Tuy nhiên, hiện thực đã nhanh chóng làm cho Pulitzer cảm thấy chán chường với đời lính đánh thuê đến mức, ngay khi tàu chưa kịp cập bến Boston, anh đã ôm số tiền ứng trước của những người sang châu Âu tuyển mộ lính và nhảy ngay xuống biển bơi vào bờ. Tuy nhiên, “chạy giời không khỏi nắng”, Pulitzer vẫn phải khoác lên mình áo lính và bị sung vào biên chế Trung đoàn Kị binh số 1 của New York. Tuy nhiên, tới năm 1865, nội chiến ở Mỹ chấm dứt, Pulitzer phải ra quân. Chàng trai 18 tuổi không biết làm gì tiếp theo.

Tại Saint Louis, nơi Pulitzer tá túc sau khi rời quân đội, cuộc sống của một kẻ nhập cư chẳng dễ chịu tí nào. Anh nói thạo tiếng Đức và tiếng Pháp nhưng lại rất kém tiếng Anh nên mãi không tìm ra được một việc làm tử  tế, đành phải lúc thì đi dọn rác, lúc lại đi làm bồi bàn, rồi cả việc chăn súc vật nữa. Tuy nhiên, Pulitzer không nản chí, cứ rảnh rỗi là anh lại lên thư viện để nghiên cứu ngôn ngữ và luật.

Vận may đã mỉm cười với Pulitzer trong phòng chơi cờ vua, nơi thỉnh thoảng anh ghé vào sau lúc đọc sách trên thư viện. Số phận của anh được định đoạt bởi một lời mách nước mà anh đã nói bên bàn cờ vua. Hai đấu thủ nghe lời khuyên của anh lúc đó lại là biên tập viên của báo Westliche Post in bằng tiếng Đức. Đánh giá cao sự sáng dạ của Pulitzer, họ mời anh tới tòa soạn cộng tác. Và, công việc làm báo đã khiến Pulitzer thành đạt nhanh tới mức, ở tuổi 25, anh đã là đồng sở hữu tờ Westliche Post.

“Bán chữ”, nếu chạy, luôn là nghề hái ra tiền. Tới năm 1878, Pulitzer cảm thấy mình đã đủ giàu có để lập gia đình. Người vợ tương lai là một thiếu nữ tới từ Washington, Katherine Davis. Cuộc đời tiếp tục nở hoa với anh, nhưng không phải vì thế mà Pulitzer thanh nhàn hưởng thụ hoa thơm trái ngọt.

Năm 1878, Pulitzer mua tờ báo St. Pouis Post-Dispatch và bắt đầu hành trình khổ ải vì nghề. James Barrett, người viết tiểu sử cho Pulitzer, khẳng định rằng, từ đó trở đi, Pulitzer “ngồi vào bàn làm việc từ sáng sớm cho tới nửa đêm, đôi khi còn muộn hơn, không bỏ sót bất cứ một chi tiết nào trong “đế chế” của mình”. Cho tới cuối đời, Pulitzer vẫn tuân thủ theo nguyên tắc của mình: Sống là phải làm việc say mê.


Đơn thương thẳng tiến

Để độc giả mua tờ báo của mình, Pulitzer thường xuyên tung ra những phóng sự điều tra táo bạo, hấp dẫn với những lời bình luận đầy ấn tượng. Ông viết về nạn tham nhũng, ăn hối lộ, những trò trốn thuế và về những tên trộm cướp “rách giời rơi xuống”... Những sự kiện nóng bỏng gây hứng thú vô biên đối với người đọc và số lượng phát hành của báo không ngừng gia tăng, đồng nghĩa với việc Pulitzer càng ngày càng trở nên giàu có.

Tuy nhiên, sự cống hiến quên mình cho công việc không phải là không gây ảnh hưởng xấu. Tới tuổi 35, Pulitzer đã bị giảm thị lực nghiêm trọng. Thế là ông đành cùng vợ về “lục địa cũ” tìm thầy chạy chữa mắt. Tuy nhiên, đi tàu hỏa tới New York, chưa kịp lên tàu thủy để đi châu Âu,  Pulitzer lại bị cuốn theo niềm đam mê báo chí. Thấy tờ The New York World đang ở  bên bờ vực phá sản, ông mua nó luôn. Và quên đi chuyện mắt kém, ông lại lao mình vào công việc. Bắt đầu “cuộc cách mạng của một người”, như Barrett sau này viết.

Nắm The New York World, Pulitzer thay đổi hẳn cách làm, nội dung và cả khổ báo. Ông đưa tờ báo này lên vị trí đầu bảng về chống tham nhũng trong nền chính trị Mỹ lúc đó. Cùng với những bài bản cũ mà ông đã từng sử dụng thành công ở tờ St. Pouis Post-Dispatch, khi làm The New York World, ông đã đưa ra thêm một số công thức mới: Trên các trang báo đã xuất hiện minh họa màu và những bài dài kỳ. Pulitzer còn rất chú trọng đến tính thời sự của các bài viết và tin. Chính The New York World là tờ báo đầu tiên đã miêu tả bức tượng mà người ta mãi không chở được từ Pháp sang Mỹ, bức tượng mà hiện giờ cả thế giới đều biết tới với cái tên Tượng thần Tự do.

Bốc đúng “bệnh” cho The New York World, Pulitzer không chỉ làm hồi sinh tờ báo này mà còn giúp nó sau 10 năm trở thành một trong những cơ quan báo chí hàng đầu của nước Mỹ thời đó với lượng phát hành lên tới 600 nghìn bản.

Những thay đổi ở The New York World dĩ nhiên không làm cho các ông chủ báo khác hài lòng. Pulitzer bị đố kị ở khắp mọi nơi, nhiều “đại gia” trong làng báo Mỹ thời đó đã tìm mọi cách để “chẹn họng” ông, kể cả chơi “võ bẩn”. Thí dụ, tờ The Sun còn bêu riếu xuất thân của ông, cho ông là một người Do Thái “mất gốc” (?!). Sau khi bài báo này ra đời, một thời gian dài, người gốc Do Thái sống ở New York đã không mua tờ báo của Pulitzer nữa...

Làm một tờ báo hay đã mệt mỏi rồi, chống lại những kẻ không muốn mình làm được một tờ báo hay còn mệt mỏi hơn nữa. Sức khỏe của Pulitzer vì thế đã bị suy giảm nghiêm trọng. Năm 1890, ở tuổi 43, Pulitzer đành phải ngừng làm công tác biên tập báo và phải đi chữa bệnh ở những cơ sở y tế tốt nhất thế giới.

Tuy nhiên, mọi sự đã muộn. Hai mươi năm cuối đời, ông đành phải sống trong những căn hầm cách âm ở biệt thự của mình tại New York và trên du thuyền riêng. Tuy thế, ông vẫn cầm chắc dây cương đối với “đế chế” báo chí của mình. Đôi lúc, ông còn ngoan cường đích thân đứng ra điều khiển những cuộc chiến với các đối thủ cạnh tranh...

Năm 1896, Pulitzer bắt buộc phải đích thân tiến hành cuộc chiến giành độc giả với William Randolph Hearst, chủ của ấn phẩm Journal cũng cực kỳ ăn khách và không nề hà ngay cả chuyện đưa các tin vịt. Trong bối cảnh đó, The New York World của Pulitzer cũng chẳng tìm ra cách hành xử nào hay ho hơn là thi nhau làm bậy để lôi kéo người đọc. Khi người dân Cuba đứng lên chống lại ách cai trị của thực dân Tây Ban Nha ở hòn đảo quê hương mình, Pulitzer và Hearst đã thi nhau xem ai bịa ra được nhiều tội ác của binh lính Tây Ban Nha hơn.

Cả hai đều lên tiếng yêu cầu chính phủ Mỹ phải tuyên chiến với Tây Ban Nha sau khi tàu chiến Maine bị nổ tung rồi chìm trong những tình huống không rõ ràng ở cảng La Habana ngày 16/2/1898. Các ông nghị Mỹ sau khi đọc những bài viết trên các ấn phẩm của Pulitzer và Hearst quả thực đã đồng ý tuyên chiến với Madrid...

Tuy nhiên, câu chuyện trên chỉ diễn ra trong 4 tháng. Sau đó, Pulitzer đã từ bỏ quan điểm làm báo theo cách mà bây giờ chúng ta gọi là “lá cải”. The New York World dần dà trở nên biết tự kiềm chế hơn và đứng về phía đảng Dân chủ.

Ngày 29/10/1911, trong lúc đang ở trên du thuyền, Pulitzer đã trút hơi thở cuối cùng. Trước đó, ông đã đọc cho thư ký chép lại câu mà ông coi là phương châm hành xử chủ yếu của mình trong nghề làm báo: “Chỉ có ý thức trách nhiệm chân thành nhất mới cứu được nghề báo khỏi rơi vào vị thế nô lệ trước giai cấp hữu sản, giai cấp luôn theo đuổi những mục tiêu ích kỷ và hoạt động chống lại lợi ích của xã hội”.

Sống cả sau khi chết

Ngay từ năm 1904, Pulitzer đã viết trong di chúc về việc để lại cho Trường Đại học Tổng hợp Columbia 2 triệu USD. Ông chủ báo này muốn ba phần tư số tiền đó được sử dụng vào việc lập ra Phân viện Báo chí, phần tiền còn lại dùng để lập ra giải thưởng báo chí. Một năm sau ngày Pulitzer mất, Phân viện Báo chí được thành lập tại Trường Đại học Tổng hợp Columbia. Còn giải thưởng mang tên ông bắt đầu được trao hàng năm (từ năm 1917). 88 mùa xuân đã trôi qua, uy tín của giải thưởng này vẫn không bị suy giảm, bất luận những biến thiên trên chính trường và làng báo chí Mỹ.

Câu nói của Pulitzer cho tới hôm nay vẫn đáng để những người làm báo suy ngẫm: “Tôi suốt đời làm báo và tôi hiểu rằng, báo chí có ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ tới trí óc con người. Tôi muốn làm cho cái nghề này trở nên hấp dẫn đối với lớp trẻ mạnh về tinh thần và anh minh về trí tuệ, cũng như muốn giúp cho những ai đã chọn nghề làm báo có được những phẩm chất đạo đức và nghiệp vụ cao”.

 Theo Trần Trọng Thanh
An Ninh thế giới

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm